Thiên Nhiên và Tài Nguyên

1. Địa Lý

A-déc-bai-gian nằm về phía đông nam của vùng Caucasus, trải dài hơn 800 km từ biển Đen ra biển Caspi. Nằm tại ngã cửa ngõ của Châu Âu và Châu Á, A-déc-bai-gian có một vị trí địa lý độc đáo, và có tầm quan trọng đặc biệt đối với giao thoa kinh tế và văn hóa thế giới.

A-déc-bai-gian bao quanh bởi các dãy núi, chiếm hơn một nửa lãnh thổ: phía bắc là dải Caucasus với đỉnh núi Bazardyuzy cao nhất đất nước - 4,466m (phía đông nam của đỉnh núi này chạm tới A-déc-bai-gian), về phía tây nam là vùng cao nguyên Transcaucasian rộng lớn kéo dài đến Ác-mê-ni-a và Gruzia, giáp với dãy Lesser Caucasus , và phía nam dãy núi Talysh. Về phía tây, vượt ra ngoài ranh giới của A-déc-bai-gian, dãy Greater Caucasus và Lesser Caucasus bao quanh bởi dãy Likh (Suram) trải dài đến phía đông vượt ra khỏi vùng đồng bằng Kur-Araz rộng lớn. Đất nước được bao viền bởi các thung lũng dốc và vùng đồng bằng. Vì vậy, bề mặt của A-déc-bai-gian giống như một khay khổng lồ với các dốc núi thẳng đứng, dốc ra biển Caspi.

Thêm vào đó là bốn vùng thung lũng biệt lập: một là ở phía bắc của dãy Greater Caucasus (thung lũng Gusar và các vùng đồng bằng Samur-Davachi), một là bên trong cao nguyên Transcaucasian, (thung lũng Arazyani của Nakhchivan), thứ ba là trên bán đảo Apsheron dốc xuống biển và thứ tư là đồng bằng Lankaran dưới chân núi Talysh. Những đặc thù độc đáo nhất về bề mặt, cùng với đặc thù về vị trí địa lý, bao gồm cả các đặc thù của vùng Caucasus và Trung Á đã góp phần định nghĩa một cách sâu sắc về sự đa dạng và hào phóng mà thiên nhiên đã ban tặng.

Phần lớn thời gian mùa hè ở vùng đồng bằng diễn ra dài, khô và nóng; cảnh quan là bán sa mạc, nhưng trong các đầm lầy ngập mặn thì các vùng này có thể được coi là sa mạc. Chỉ có mưa vào những tháng lạnh hơn, không thể làm nông nghiệp mà không có thủy lợi. Ở vùng núi, thảo nguyên và rừng thưa đan xen cùng với rừng lá rộng dày đặc. Trên dãy Greater và Lesser Caucasus có nhiều con sông chảy từ vùng núi xuống đến đồng bằng. Các con sông lớn chảy qua khu vực này trong khi các con sông nhỏ dần khô cạn, trở thành các khe suối và tạo ra "vùng đồng bằng khô". Thung lũng sông và vùng đồng bằng rất thuận lợi cho việc an cư và trồng trọt.

Sự tương phản chính về thiên nhiên của A-déc-bai-gian đến từ sự khác nhau giữa vùng núi ẩm ướt và vùng đồng bằng khô. Cảnh quan thay đổi từ khô, nóng bán sa mạc, đến vùng cao nguyên phủ đầy tuyết trắng và sông băng. Sự đa dạng độc đáo về thiên nhiên của A-déc-bai-gian là kết quả của vị trí địa lý và sự đa dạng hóa. Toàn cảnh ngày nay của A-déc-bai-gian, với những ngọn núi cao, vùng cao nguyên núi lửa, hẻm núi sâu, vùng đồng bằng, thung lũng và bờ biển đã được hình thành qua hàng triệu năm.

Biên giới phía bắc của A-déc-bai-gian với Liên bang Nga (Dagestan) trải dài dọc theo đường chia của dãy núi Greater Caucasus. Ở phía Tây Bắc của đất nước, sự phân chia phạm vi rõ ràng bắt nguồn từ thung lũng Qanix (Alazan)  tới Agrichay. Về phía đông của Bazar-dyuzu - đỉnh cao nhất của vùng phía Đông Caucasus - cả hai sườn các dãy núi phân chia đều thuộc về A-déc-bai-gian.

Trên dải phân chia chính, nằm giữa Bazar-dyuzy (4,466m) và Babadag (3629 m), thì điạ hình miền núi cao chiếm ưu thế.

Dải phân chia đi cùng với lớp núi đá ở bên với đỉnh cao nhất là Shahdag (4.243 m). Về phía đông và đông nam Babaduz, dải Greater Caucasus nhanh chóng đi xuống và biến thành các nhánh núi hình quạt có độ cao trung bình tên là Dyubrar. Về phía đông nam các dải núi này đi cùng với những ngọn đồi và núi thấp Gobustan, và ở phía đông là các thung lũng cao nguyên thấp bán đảo Apsheron. Cả hai khu vực này là nơi có núi lửa bùn hoạt tính.

Ở A-déc-bai-gian, ngoại trừ phía tây bắc, phần trải dài tới Georgia. Cao nguyên ở phía trung Kur ngăn cách phía tây bắc của thung lũng Kur thành hai thung lũng nhỏ - Qanix (Alazan) -Agrichay ở phía bắc và Ganja-Kazakhstan ở phía tây nam. Vùng đồng bằng Kur-Araz, cũng giống như vùng Caspi, nằm hoàn toàn dưới mực nước biển, được bao bọc bởi những ngọn đồi và đồng bằng thoải. Các Kur-Araz đồng bằng được bao quanh bởi Karabakh và đồng bằng Mil ở phía tây, ở chân dãy núi Lesser Caucasus, và đồng bằng Shirvan dưới chân của dãy Great Caucasus. Dọc bờ các con sông Araz và Kur là đồng bằng Mil và Mugan trải rộng tít tắp cho đến tận Iran. Đồng bằng Salyan và phía Đông Nam Shirvan trải dài đến Kur.

Cách không xa bờ biển Caspi là hai quần đảo bùn núi lửa nổi lên từ mặt biển: quần đảo Apsheron, gần bán đảo Apsheron, và quần đảo Baky gần bờ biển Gobustan và vùng đồng bằng Kur-Araz.

Phía Đông Nam của dãy núi Lesser Caucasus cũng thuộc địa phận của A-déc-bai-gian. Vùng này là một hệ thống các cao nguyen cao quá 2.000-3.000 m và một loạt các cao nguyên trung bình và thấp.

Các thung lũng sông Terter chia phần A-déc-bai-gian của Lesser Caucasus  thành hai phần - tây bắc và đông nam. Phần phía tây bắc bao quanh bởi hai dãy – dãy Shahdag với đỉnh núi Ginaldag (3,367 m) và dãy Murov dag với đỉnh cao nhất Gyamish (3,725 m). Cả hai sườn của Murovdag đều thuộc về A-déc-bai-gian và biên giới giữa A-déc-bai-gian và Ác-mê-ni-a vượt qua dải phân chia ranh giới Shahdag. Trên triền đông nam của dải Lesser Caucasus  là rặng Karabakh, với đỉnh núi Boyuk Kir cao (2,725 m). Dãy núi này mọc sừng sững trên dải đồng bằng Karabakh và khu vực lân cận Khankandi. Ở phía nam các dãy núi này đổ từ thảo nguyên Geyan đến thung lũng núi đồi Araz. Bên trong cao nguyên Transcaucasian kéo dài đến tận lãnh thổ của Gruzia và Ác-mê-ni-a và lãnh thổ A-déc-bai-gian có hai phần nhỏ. Về phía đông của phần nhô ra này là vùng cao nguyên núi lửa Karabakh gồm một loạt các núi lửa trẻ nhưng đã không còn hoạt động. Có một số đỉnh núi cao hơn 3.000 m (Ví dụ như đỉnh Ishikhli cao 3,552 m), mặc dù đa phần là các núi cao trong khoảng 1,500-2,500 m. Trên lãnh thổ của Nakhchivan mọc lên các cao nguyên biên giới - Zangazur và Daralayaz. Ở trên đỉnh của dải Zangazur là núi Kaputjukh (3904 m) đây là điểm cao nhất không có núi lửa của cao nguyên Transcaucasus. Các chân núi phía nam của dãy Zangazur bị xói mòn bởi sông Araz. Các ngọn núi Talysh có chiều cao trung bình. Đỉnh cao nhất của dãy này là núi Kyumyurkey cao 2,477 m. Hấu hết các sườn phía đông bắc của các núi này thuộc địa phận của A-déc-bai-gian. Các sườn núi này được phân chia thành ba dải song song bởi các thung lũng và hố trũng. Các lưu vực sông chính hình thành nên biên giới giữa A-déc-bai-gian và Iran nên sườn dốc Talysh hoàn toàn nằm ở Iran.

Một số các con sông của A-déc-bai-gian đổ vào sông Kur, một số các sông khác trước tiên chảy vào sông Araz, đây là nhánh lớn nhất của Kur, còn các con sông khác chạy thẳng đến biển Caspi. Dòng chảy hàng năm của các sông ước đạt 7780000000 mét khối. Sự phân bố của mạng lưới các con sông trên lãnh thổ là không đồng đều. Trên vùng đồng bằng, có nền đất yếu thấm nước, thì rất hiếm có sông nhưng ở vùng núi số lượng các con sông tăng do địa hình và lượng mưa dồi dào. Mạng lưới các con sông cũng phát triển ở độ cao 1,000-2,500 m. Nói chung, cứ mỗi km vuông lại có 90.000 cu- bic mét sông.

Con sông lớn nhất ở A-déc-bai-gian là Kur. Có chiều dài 1.515 km (900 km trong nội địa A-déc-bai-gian). Sông Araz chảy vào Kur 236 km. Sông Kur hình thành nên một vùng đồng bằng ở cửa sông dài 15 km. Sông chảy vào biển Caspi qua hai nhánh: nhánh phía đông bắc, bây giờ đã cạn, và nhánh phía đông nam. Người ta đã đào một tuyến đường hàng hải vào năm 1964 theo hướng đông nam. Sông Kur là con sông duy nhất ở A-déc-bai-gian có ý nghĩa quan trọng đối với giao thông vận tải. Phần sông Kur chảy từ Yevlakh đến cửa sông có ý nghĩa hàng hải cho tàu chở khách và hàng hóa nhỏ.

Con sông lớn thứ hai là Araz, dài 1072 km. Giống như Kur, sông Araz cũng bắt nguồn từ Thổ Nhĩ Kỳ. Sông Araz làm nên ranh giới tự nhiên giữa A-déc-bai-gian, Thổ Nhĩ Kỳ và Iran dọc theo chiều dài 580 km. Trên lãnh thổ của Nakhchivan thì sông Araz có nhiều nhánh: nhánh Đông Arpachay, nhánh Nakhchivan, nhánh Alindjachay và Gilanchay. Sau khi sông Acer (Hakeri) đến hòa vào,thì sông Araz đổ vào vùng đồng bằng Kur-Araz.

Trong lòng núi có hàng ngàn con sông nhỏ dài chưa đầy 10 km. Khoảng 800 con sông ở Cộng hòa A-déc-bai-gian có chiều dài từ 10 đến 100 km. 23 con sông có chiều dài hơn 100 km. Tổng khối lượng nước ở các sông của A-déc-bai-gian, bao gồm hệ thống thoát nước của các dòng sông quá cảnh mang nước từ vùng lãnh thổ lân cận, tạo thành khối 30 km mỗi năm. Các con sông ở vùng núi chở đến các thung lũng một số lượng lớn đất, đá, thường các dòng thiên tai, gây thiệt hại lớn cho nông nghiệp. Các con sông ở A-déc-bai-gian có giá trị cho nguồn lợi thủy sản của họ. Người ta bắt cá hồi và cá tầm ở sông Kur. Các con sông ở dãy Lesser Caucasus có cá hồi .

Nguồn tiềm năng thủy điện của các con sông ở A-déc-bai-gian là 16 tỷ kw / giờ một năm. Đóng góp chủ yếu đến từ các sông Kur và Araz. Các con sông của vùng Caucasus Greater có khả năng thủy năng  lớn do dòng thác cao và sườn dốc. Các nhà máy thủy điện chính là Mingechevir (lớn nhất trong vùng Transcaucasus) và nhà máy Varvarin hoạt động trên sông Kur.

Có khoảng 250 các hồ nhỏ ở A-déc-bai-gian. Các hồ trên núi có nguồn gốc kiến tạo và đóng băng, chẳng hạn như hồ Goy-gol (ở độ cao 1556 m) và hồ Alagel lớn và nhỏ (tại độ cao 2730 m). Dọc theo bờ biển Caspi có các hồ - Devechi, Gemushovan, Gil và Kildag. Hồ bitum Binagadi trên vùng Apsheron là hồ độc nhất vô nhị chôn cất hàng loạt các loài động vật cổ xưa đã tuyệt chủng.

Mạng lưới thủy điện tự nhiên và hệ thống thủy lợi của A-déc-bai-gian được điều tiết bởi các hồ chứa nước. Hồ lớn nhất là ở Mingechevir, được xây dựng vào năm 1953. Con đập, với chiều cao 88m, tạo thành một hồ chứa nước có diện tích 605 km vuông. Và một khối lượng 16,1 triệu mét khối nước. Các hồ chứa nước khác nằm ở Araz (sức chứa 1,35 triệu mét khối) và Shamkhor (Shamkhir) (2,67 triệu mét khối).

Mạng lưới kênh tưới bắt nguồn từ hồ chứa Mingechevir - thông qua Thượng Karabakh và các kênh thượng Shirvan. Các mạng lưới kênh tưới này mang nước đến các cánh đồng trồng bông trên vùng đồng bằng Kur-Araz. Mật độ cao nhất của các kênh mương thủy lợi là ở đồng bằng Mughan. Tổng chiều dài của tất cả các kênh của đất nước vượt quá 3.000 km. Trên vùng đồng bằng Samur-Devechi ,các kênh tưới Samur-Devechi trải dài 191 km, từ sông Samur ở phía bắc đến hồ chứa nước Jeyranbatan trên bán đảo Apsheron. Nước của kênh này không chỉ tưới cho vùng đất khô cằn phía tây bắc của A-déc-bai-gian và Apsheron mà còn đáp ứng nhu cầu dân cư và công nghiệp của Baky và Sumgayit.

Chiều dài của kênh rạch của đất nước là 47.058 km, và có diện tích tưới 1,4 triệu ha.

Nước ngầm được sử dụng trong nông nghiệp của A-déc-bai-gian đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho một số quận huyện. Là những vùng đất trũng ngập mặn Apsheron và Kur-Araz.

Biển Caspi là hồ nước mặn lớn nhất trên hành tinh. Tuy nhiên, kích thước và đặc điểm thủy văn và nguồn gốc của nơi đây có cơ sở để được gọi là một biển. Quá khứ địa chất của biển Caspi có liên kết với đại dương ở phía tây và phía bắc của Trái đất. Một số thông tin cổ sinh vật học cũng như động vật học được lưu trữ ở biển hồ Caspi (15 loại động vật có vỏ và cá) chỉ ra mối liên kết của biển Caspi với các vùng biển phía Bắc.

Đất bề mặt của A-déc-bai-gian có một loạt các loại từ đất đồng cỏ núi được tìm thấy trong các đồng cỏ núi cao cho đến đất khô bán sa mạc và đất vàng của vùng cận nhiệt đới Lankaran. Sự đa dạng này là bởi cấu trúc địa chất. địa hình, điều kiện thủy lợi, khí hậu và thảm thực vật phức tạp. Nông nghiệp cũng đã ảnh hưởng đến sự hình thành đất của A-déc-bai-gian. Đất của vùng đồng bằng mang đặc điểm nổi bật của đất canh tác. Đất này phụ thuộc vào cường độ rửa trôi trong điều kiện thủy lợi nhân tạo, màu mỡ bởi phân bón, và bị ảnh hưởng bởi thủy lợi kép (kết quả là, đất thường có độ mặn). Bên dưới rừng núi và thảo nguyên là đất đen rất màu mỡ. Có một loại đất đặc biệt, màu vàng, đất này khác biệt rõ ràng ở các khu vực Talysh và Lankaran. Loại đất này hình thành trong khí hậu ấm áp và ẩm ướt và màu đỏ và vàng trong đất này xuất phát từ sắt và nhôm đi-ô-xit còn sót lại sau khi mưa đã cuốn trôi đi các chất hoà tan khác.

2. Khí hậu

Địa hình của A-déc-bai-gian tạo điều kiện khá thuận lợi cho sự hình thành một vùng khí hậu ôn hòa ấm áp trên hầu khắp đất nước: dãy Greater Caucasus đóng vai trò là rào cản tự nhiên ngăn ngừa khối khí lạnh từ miền Bắc, và dãy Lesser Caucasus ngăn chặn không khí nhiệt đới nóng từ miền Nam. Tuy nhiên, vào mùa đông khối khí lạnh tràn vào lãnh thổ của A-déc-bai-gian từ phía bắc có thể gây ra các cơn bão, tuyết rơi và băng cứng.

A-déc-bai-gian có 9 trong số 11 vùng khí hậu. Nhiệt độ trung bình hàng năm cao nhất của không khí thường được ghi lại trên các vùng đồng bằng - Kur-Araz và Lankaran là vượt quá 14C. Nhiệt độ trung bình tháng giêng tại những vùng đồng bằng vượt 0C, nhưng đôi khi nhiệt độ rơi xuống - 20C. Gió Fen khô nóng thổi từ núi Talysh vào mùa xuân và không khí nhiệt đới vào mùa đông thường gây ra sự gia tăng mạnh về nhiệt độ.

Tháng bảy và tháng tám là những tháng nóng nhất ở A-déc-bai-gian. Nhiệt độ trung bình trong tháng Bảy ở vùng đồng bằng Kur-Araz, phía tây của bán đảo Apsheron và đồng bằng Priaraz (Arazyani) của Nakhchivan là 25 đến 27C. Có một số ngày khi không khí nhiệt đới thẩm thấu từ phía nam trên những vùng đồng bằng nhiệt độ có thể tăng lên từ 40 đến 43C. 
Ở vùng Julfa (Nakhchivan) nhiệt độ cao nhất ghi lại được là 44C. Với vị trí nằm cách xa biển Caspi và bao quanh bởi rặng núi cao, Nakhchivan có đặc trưng khí hậu lục địa. Tại đây ghi nhận được không chỉ nhiệt độ cao nhất, mà cả nhiệt độ thấp nhất toàn quốc. Nhiệt độ không khí thấp nhất ở vùng đồng bằng A-déc-bai-gian (-31C) được ghi nhận tại các trạm khí tượngDervishlar. 
Mặc dù có một hồ chứa nước bên cạnh lớn như biển Caspi, chỉ có phần ven biển mới chịu ảnh hưởng của biển và các nguồn độ ẩm chính không phải đến từ Caspi mà là từ khối không khí phương Tây. Phân bố lượng mưa rất không đồng đều trên cả nước, có những khu vực đạt 200 mm lượng mưa mỗi năm (như khu vực phía nam của bán đảo Apsheron) và có những khu vực khác đạt 1600 mm mỗi năm (như phía nam của vùng đồng bằng Lankaran). Đôi khi còn có mưa đá, rất có hại cho nông nghiệp.


CÁC VÙNG KHÍ HẬU CỦA A-DÉC-BAI-GIAN
Có rất nhiều loại gió thổi vào lãnh địa A-déc-bai-gian. Những cơn gió thịnh hành ở bán đảo Absheron là Khazri (Baku nord) - một cơn gió bắc mạnh đến từ biển - và Gilavar - một cơn gió tây nam mạnh mẽ.

Trên vùng đồng bằng, gió thổi thường ở hướng tây bắc và đông nam. Gió không đạt tốc độ cao trên đại lục, ngoại trừ trên bán đảo Apsheron, nơi thường xuyên xuất hiện gió bão mạnh. Tốc độ của gió Khazri đạt đến mức tối đa trên các vùng ven biển, khi thổi theo các hướng khác nhau ra biển thì có tốc độ chậm hơn.

Vào mùa hè thì những cơn gió nóng và khô hổi ở vùng đồng bằng Kur-Araz, có hại cho nông nghiệp.

Thay đổi về thời gian của các mùa ở A-déc-bai-gian không được rõ ràng cho lắm. Mùa xuân bắt đầu vào đầu tháng ba ở vùng đồng bằng và bán đảo Apsheron. Mùa hè kéo dài nhất, từ cuối tháng Năm và kéo dài cho đến giữa hoặc thậm chí vào cuối tháng Mười, lúc này ở các vùng đồng bằng có thời tiết khô và nóng.

Mùa thu bắt đầu vào tháng Mười, khi nhiệt độ dịu đi và trời thi thoảng đổ mưa. Thời tiết thông thường thì khô và nóng, đo là lý do vì sao mùa thu ở A-déc-bai-gian được coi là thời điểm "dễ chịu". Ở vùng núi thì mùa thu thường cũng là mùa mưa.

Mùa đông ở A-déc-bai-gian tương đối dễ chịu. Tỷ lệ nhiệt độ ẩm ở vùng đồng bằng là hiếm. Chỉ khi nào mùa đông lạnh bất thường thì mới có tuyết đông. Những tháng lạnh nhất là tháng Giêng và tháng Hai.Có 9 loại khí hậu trên cả nước, thay đổi từ nhiệt đới khô và ẩm tới khí hậu của vùng lãnh nguyên trên cao, với phổ nhiệt độ từ - 45C ở vùng cao đến + 44C ở vùng đồng bằng.

Khu vực đồng bằng Kur-Araz, gắn với chân núi Greater và Lesser Caucasus, cùng với vùng đồng bằng Samur-Devechi và bán đảo Apsheron với Gobustan, có khí hậu bán sa mạc và thảo nguyên khô với mùa hè khô nóng và mùa đông ôn hòa, gần với khí hậu nhiệt đới. Cũng có khí hậu như vậy nhưng có mùa đông lạnh là điển hình cho vùng Priaraz (Arazyani) của Nakhchivan.
Các chân núi dãy Caucasus Greater và Lesser có khí hậu ấm áp ôn hòa với mùa đông khô. Điển hình cho khí hậu này là độ ẩm vừa phải. Áp dụng thủy lợi khiến cho việc canh tác đất đai rất thuận lợi. Ở vùng rừng của sườn phía nam và phía đông bắc của dải Greater Caucasus có nền khí hậu ấm áp vừa phải với mưa. Khí hậu ấm áp vừa phải với mùa hè khô, nhưng các mùa khác thì có lượng mưa dồi dào, đây là đặc trưng cho vùng cận nhiệt đới ẩm của đồng bằng Lankaran và chân đồi xung quanh núi Talysh. Khí hậu lạnh với mùa đông khô là điểm đáng chú ý của sườn phía đông bắc dãy Greater Caucasus (1,000-2,700m) và một phần đáng kể của dãy Lesser Caucasus  (1,400-2,700m). Nakhchivan có đặc trưng khí hậu lạnh với mùa hè khô.

Ở độ cao trên 2,700-3,000 m khí hậu lạnh và ẩm ướt của vùng cao chiếm ưu thế. Đây là loại khí hậu đáng chú ý cho vùng cao nguyên của dãy Greater và Lesser Caucasus  và một phần phạm vi Zangezur của Nakhchivan.

Nhìn chung, khí hậu của vùng núi thay đổi từ khí hậu của vùng lãnh nguyên sang khí hậu bán sa mạc và thảo nguyên khô. Cùng lúc đó, mùa hè nóng và khô, mùa thu với những cơn mưa , mùa đông mát mẻ và ẩm ướt, và mùa xuân thay đổi là tiêu biểu cho thời tiết của vùng đồng bằng. Tất cả các vùng đồng bằng đều được chia thành các khu vực của vùng cận nhiệt đới khô (các đặc điểm chính của vùng đồng bằng) và cận nhiệt đới ẩm (thung lũng Alazan / Qanix -Agrichay và đồng bằng Lankaran).Người dân có thể canh tác cả cây trồng nhiệt đới khô và ẩm ở A-déc-bai-gian.

Tất cả các đặc điểm khí hậu của A-déc-bai-gian được xác định không chỉ bởi địa hình, mà còn bởi vị trí địa lý đặc biệt, quá trình lưu thông và sự đa dạng của các loại đá và nước ngầm.

3. Thảm thực vật

Lãnh thổ của A-déc-bai-gian là nhà của hơn 4.100 loài thực vật. Hơn 200 loài sắp tuyệt chủng (bản địa) - chúng chỉ có thể được tìm thấy ở những vùng đất thuộc A-déc-bai-gian và khu vực lân cận. Ví dụ, những cây thông cổ, sen caspi, nổi tiếng với vẻ đẹp của mình, có thể được tìm thấy trong các khu vực đồng bằng Kur và gần Astrakhan. Trong rừng Talysh có một số loài sắp tuyệt chủng cũng chỉ có thể được tìm thấy ở phía bắc Iran.

Sự đa dạng của thảm thực vật ở A-déc-bai-gian không chỉ ở những dấu ấn lịch sử của thiên nhiên mà còn ở vị trí của nó nằm trên các điểm giao thoa của một số tỉnh thực vật và điều kiện tự nhiên đa dạng hiện nay. Các khu rừng "Tugay" mọc dọc theo bờ sông Kur, sông Araz sông Alazan đều rất độc đáo: các khu rừng này băng qua thung lũng bán sa mạc khô và được nuôi dưỡng bởi nước sông trong các trận lũ và nước ngầm. Những khu rừng bao gồm gỗ sồi, cây bạch dương, tần bì, liễu, cây có hạt, chiếm diện tích lớn ở Gazaoglan, Jirdahan, Babanlar, Varvara và được bảo vệ đất.

Rừng núi bao phủ khoảng 10% toàn bộ lãnh thổ của A-déc-bai-gian và phát triển ở độ cao từ 600-700 đến 1.800 m. Những khu rừng lá rộng và các loài cây chủ yếu là gỗ sồi, cây trăn,phong, và tần bì. Núi rừng có tầm quan trọng trong việc bảo vệ nước và đất. Đây là điểm đến rất hấp dẫn cho việc săn bắn, giải trí và du lịch. Các khu rừng lá rộng của Lankaran rất đặc biệt với các giống sắp tuyệt chủng cổ như cây keo lụa, chìm dưới nước.

Hệ thực vật của A-déc-bai-gian là một nguồn tài nguyên có giá trị, để sản xuất thực phẩm và vật liệu xây dựng. Bao gồm y tế, thuộc da, vitamin ,trái cây hoang dã phong phú và các cây trồng thức ăn gia súc. Trong khu bảo tồn rừng của Zakatala, người ta đã trồng nhân sâm từ năm 1953. Trong khu vực Talysh-Lankaran có đồn điền của Tunga, Feijoa, nguyệt quế, và trên vùng đồng bằng Kur-Araz thì người ta trồng cỏ sudan- mogar.

4. Hệ động vật

Có hơn 12.000 loài động vật sinh sống ở A-déc-bai-gian, trong đó có 92 loài động vật có vú, 350 loài chim, 49 loài bò sát, chỉ có 9 loài động vật lưỡng cư, 88 loài cá và 10.000 loài côn trùng. Cũng giống như thực vật, thế giới động vật của A-déc-bai-gian cũng bị ảnh hưởng bởi lịch sử tự nhiên. Có thể xác định một số tỉnh địa lý động vật bởi đặc trưng hệ động vật riêng.

Hệ động vật của vùng đất thấp khô được đặc trưng bởi sự phong phú của động vật gặm nhấm, và bò sát. Người ta có thể nhìn thấy những con linh dương châu Á Trung Đông hoặc ở vùng đồng bằng. Vẻ đẹp của chúng đã được mô tả bởi những tác phẩm kinh điển (Nezami) và đương thời (Samed Vurghun) của A-déc-bai-Gian .

Thế giới các loài chim cũng rất đa dạng. Ở khu bảo tồn Kizilagadj, trong các khu rừng ẩm ướt và đầm lầy của vùng đất thấp Lankaran, vào mùa đông có đến hơn 200 loài chim di cư đến, hơn nữa, có hơn một triệu loài gia cầm tập trung tại đây trong thời gian cư trú bao gồm: bồ nông, cò, thiên nga, diệc, và chim xít.

Hệ động vật của dãy Greater và Lesser Caucasus là khá đặc sắc. Ở dưới chân núi, phổ biến là các loài dơi;ngoài ra còn có gà gô, chim bồ câu xanh, chim trĩ. Trong số các loài bò sát, thằn lằn, rắn, và thằn lằn đá là những loài đáng chú ý. Trong rừng cũng không phải hiếm hươu.

Trên vùng cỏ của dãy Greater Caucasus là bò rừng ở Âu châu bản địa và những đàn sơn dương gặm cỏ. Trên dải Lesser Caucasus, có cừu Mouflon châu Á và dê. Cao nguyên Alpine là nơi sinh sống của các loài kền kền có râu, blackjack và Ulan. Ở vùng Talysh, đặc thù là con beo đến từ Iran, và nhím ở các khu rừng.

Biển Caspi phong phú với các loài sinh vật biển. Việc đánh bắt cá bao gồm cá trích, cá hồi Caspi, cá tầm, cá tầm trắng. Ở sông Kur có 50 loài cá trong đó có 23 loài có tầm quan trọng về thương mại. Một loài cá rất hiếm - cá rô pike - sống ở các khu vực gần bờ biển. Hải cẩu xuất hiện ở bờ biển A-déc-bai-gian vào tháng ba, tháng tư khi chúng di chuyển về phía Nam và vào tháng Mười, tháng Mười Một, khi chúng quay trở lại phía bắc. Để bảo tồn các loài cây, cá và các loài động vật quý hiếm và có giá trị, đã có các khu bảo tồn. Các khu bảo tồn nổi tiếng được biết đến nhiều nhất là: Zagatala, Qizilaghaj, Girkan, Turianchay, Karayazı - Agstafa, Guba-Gusar, Goy-Gol, Lachin, Bandovan. Hơn 100 loài động vật được đưa vào "sách đỏ" A-déc-bai-gian.

5. Tài nguyên thiên nhiên

5.1. Dầu 

A-déc-bai-gian giàu tài nguyên khoáng sản, quan trọng nhất là dầu mỏ. Các mỏ dầu chính ở trên bán đảo Apsheron và bờ Caspi. Các mỏ dầu giàu có nhất đã được phát hiện ở môi trường nước nằm ở phía nam của Apsheron. Mỏ dầu nằm ở phía bắc của bán đảo Apsheron ở Siazan và phía tây và tây nam của Apsheron ở Gobustan, Shirvan và Salyan là những nơi có cấu trúc tiềm năng nhất. Cách không xa Ganja (ở Naftalan) là các khu vực biến đổi dầu dược liệu độc đáo. Quan trọng là khí tự nhiên có liên quan.

A-déc-bai-gian là một trong những nước sản xuất dầu lâu đời nhất trên thế giới. Ngành công nghiệp dầu mỏ của nước này đã trải qua một sự bùng nổ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong Thế chiến II, nước Cộng hòa Xô viết của A-déc-bai-gian đã sản xuất khoảng 500.000 thùng dầu mỗi ngày. Tuy nhiên, sản lượng dầu A-déc-bai-gian sản xuất đã giảm đáng kể trong những năm sau chiến tranh do Liên Xô chỉ đạo các nguồn lực cho phát triển năng lượng đến các vùng khác. Ngoài ra, do sự phát triển dầu trên diện rộng kết hợp với việc thiếu các biện pháp bảo vệ môi trường, bờ biển A-déc-bai-gian và Biển Caspi đã bị thiệt hại môi trường nặng nề trong thời kỳ Xô viết. Những năm tháng độc lập đánh dấu một kỷ nguyên mới về thăm dò và sản xuất dầu.


5.2. Khí Gas tự nhiên 
A-déc-bai-gian có một vài 11-30 nghìn tỉ feet khối (TCF) trữ lượng khí đốt tự nhiên đã được chứng minh (tuỳ thuộc vào nguồn tham khảo). Tuy nhiên, không có đủ cơ sở hạ tầng để chuyển nguồn khí liên quan từ rất nhiều các mỏ dầu ngoài khơi Caspi và một số trong đó đã bốc cháy.

Năm 1999, A-déc-bai-gian đã thông qua đạo luật đòi hỏi phải có kế hoạch khai thác khí đồng hành để đi với từng dự án dầu. Trong tháng 10 năm 1999, SOCAR và TDA đã ký một thỏa thuận trị giá $ 425,000 để tài trợ cho một dự án nghiên cứu khí tự nhiên toàn diện.

Mỏ khí thiên nhiên Shah Deniz, được phát hiện vào năm 1999, ước tính có chứa từ 25 TCF đến 39 TCF, đây là mỏ lớn nhất tìm thấy trong 20 năm qua. Chi phí ước tính cho việc phát triển cơ sở hạ tầng tại Shah Deniz là 4,5 tỷ $ và việc sản xuất đầu tiên dự kiến vào năm 2006. Tỷ lệ sản xuất hàng năm dự kiến là 286 tỷ feet khối (BCF).

Trong số các mỏ khí đốt tự nhiên khác ở A-déc-bai-gian, ước tính khu vực Nakhchivan chứa trữ lượng 900 bcf. Ngoài ra còn có một trữ lượng khí tự nhiên tại khu vực Gunashli.

Hơn 95% sản lượng khí A-déc-bai-gian đến từ các khu vực ngoài khơi, chứ không phải trong đất liền. Các mỏ khí thiên nhiên Bakhar hiện đang chiếm hơn 40% sản lượng khí đốt tự nhiên A-déc-bai-gian, nhưng việc sản xuất của khu vực đó đang giảm do thiếu các mũi khoan mới. Dự kiến tăng sản xuất trong tương lai sẽ đến từ Nakhchivan, Gunashli, và các khu vực Shah Deniz. Hiện nay, khu vực SOCAR sản xuất được khoảng 85% khí tự nhiên của A-déc-bai-gian, và AIOC sản xuất một lượng nhỏ khí liên quan(khí đốt tự nhiên được tìm thấy với trữ lượng dầu thô).


5.3. Các tài nguyên thiên nhiên khác 
A-déc-bai-gian không có mỏ than đáng kể, cũng không có nhà sản xuất than trong nước. A-déc-bai-gian tiêu thụ chỉ một lượng nhỏ than và đã giảm tiêu thụ từ hơn 26.400 tấn năm 1992 xuống chỉ 1.100 tấn vào năm 2000.

Tuy nhiên, A-déc-bai-gian giàu sắt và quặng nhôm, pyrit, molypden, asen. Các mỏ quặng polymetalic ở Filizchay (dải Greater Caucasus) ở phía trên của thung lũng Belokanchay có tầm quan trọng thương mại. Các mỏ giàu quặng sắt (Dashkesan) và alunit (Zaglic) ở khu vực núi Lesser Caucasus.

Gần đó, ở huyện Dashkesan-Ganja là mỏ quặng coban và pyrit khá lớn.

Vùng Nakhchivan rất giàu muối và poly-kim loại. Các mỏ muối tại khu vực Negram ước tính trữ lượng khoảng 2-2,5 tỉ tấn. Molypden được chiết xuất ở Paragachay và quặng asen ở Negram.

A-déc-bai-gian cũng có mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng. Người ta chiết xuất đá cẩm thạch ở sườn núi Lesser Caucasus, mặc dù chất lượng kém hơn đá cẩm thạch Carr. Các mỏ sỏi, cát, vôi, chống cháy và đất sét đỏ gạch và đất sét trộn có trên bán đảo Apsheron. Các mỏ đá xây dựng trong nước được ước tính khoảng 300 tỷ tấn (Gyuzdeck, Mardakyan, Dovletyari, Dilagarda, Shahbulag, Naftalan, Dash Salakhly) và khoảng 24 triệu tấn đá ốp lát (Gyulbakht, Dashkesan, Shakhtakhty, Kilably).

Số lượng các suối nước nóng và khoáng sản của A-déc-bai-gian là hàng ngàn. Các suối nổi tiếng nhất là Istisu, Turshsy, Badamli, Galalty, Shikhburnu, Surakhany.

Search in archive